XÃ HỘI 5.0 CỦA NHẬT BẢN VÀ CÔNG
NGHIỆP 4.0
(Bài đăng
trên Tạp chí Điện tử, số 210 Xuân
Canh Tý 2020)
Gần đây, chúng ta
nghe nói nhiều về Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (The 4th Industrial Revolution) hoặc Công nghiệp 4.0 (Industry 4.0). Báo chí Việt Nam cũng đã có những
bài sơ qua về Xã hội 5.0 của Nhật Bản.
Vậy Xã hội 5.0 là gì, xuất hiện khi nào, nội dung gồm những gì và có phải chính
là Công nghiệp 4.0 hay không? Không phải thì có những điểm gì chung và những điểm
gì riêng của Xã hội 5.0 và Công nghiệp 4.0?
Hình
1:
Sự tiến hóa của xã hội (Nguồn:
Keidanren)
Xã hội 5.0 – Xã hội siêu thông minh
Khái
niệm Xã hội 5.0 [1, 2, 3] lần đầu
tiên được đưa ra trong Kế hoạch cơ bản về
khoa học và công nghệ lần thứ V cho giai đoạn 2016-2021 của Nội các Nhật Bản
được công bố ngày 22/01/2016 như một xã hội tương lai mà Nhật Bản hướng tới. Đó
là xã hội kế tiếp bốn xã hội trước đó như miêu tả trong Hình 1. Xã hội 1.0 là
xã hội đầu tiên khi hình thành loài người trên cơ sở cùng tồn tại với thiên
nhiên, đó là xã hội săn bắn (Hunting
Society). Xã hội 2.0 là xã hội nông nghiệp
(Agrarian Society), xuất hiện các phương tiện canh tác, sinh sống theo nhóm hay
bộ tộc, được hình thành từ khoảng 13.000 năm trước Công nguyên. Xã hội 3.0 là xã hội công nghiệp (Industrial Society)
bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII với sự ra đời của động cơ hơi nước (1765) và bắt đầu
phát triển nền sản xuất hàng hoạt. Xã hội 4.0 là xã hội thông tin (Information Society) với sự ra đời của máy tính
điện tử (1945) và bắt đầu phân bố xử lý thông tin; phát triển kỹ thuật và công
nghiệp điện tử LSI-VLSI-ULSI-SoC; xuất hiện Internet, điện thoại thông minh...
Xã hội 5.0 là xã hội siêu thông minh
(Super Smart Society) bắt đầu từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với các từ
khóa như Internet vạn vật (Internet of Things, IoT), Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ
liệu lớn (Big data), Người máy (Robot), v.v.
Chính
phủ Nhật Bản đã đưa ra đặc trưng cơ bản của Xã hội 5.0 là lấy con người làm trung tâm, đảm bảo sự cân bằng, hài hòa giữa phát
triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội thông qua hệ thống tích hợp cao
giữa không gian mạng (cyberspace, không gian ảo) và không gian vật lý (physical
space, không gian thực). Đó là một xã hội mà các nhu cầu khác nhau của xã hội
được phân biệt và đáp ứng tốt bằng cách cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cần
thiết với số lượng đảm bảo cho những người cần chúng khi họ cần, và trong đó tất
cả mọi người có thể nhận được các dịch vụ chất lượng cao và sống cuộc sống thoải
mái, khỏe mạnh nhằm tạo ra các khoản gia tăng cho những khác biệt khác nhau như
tuổi tác, giới tính, khu vực hoặc ngôn ngữ [1, 2].
Thủ
tướng Nhật Bản Abe Shinzo đã nói tại Hội nghị Quốc tế Tương lai Châu Á vào ngày
31/05/2017 ở Tokyo rằng: Bản chất của Xã
hội 5.0 là có thể nhanh chóng đưa ra giải pháp phù hợp nhất đáp ứng nhu cầu của
từng cá nhân. Rõ ràng, Xã hội 5.0 lấy con người làm trung tâm, lấy nhu cầu
xã hội, nhu cầu con người để đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu ấy.
Như
vậy, Xã hội 5.0 là xã hội mới, tiến hóa từ Xã hội 4.0, với tính sáng tạo là đặc
trưng cơ bản như được chỉ ra trong Hình 2. Nếu như Xã hội 4.0 với tri thức và
thông tin không/chưa được chia sẻ, hay giá trị xuyên lĩnh vực rất khó được tạo
ra, thì sang Xã hội 5.0 có IoT kết nối con người với vạn vật, tất cả các loại
tri thức và thông tin sẽ được chia sẻ, khi đó giá trị mới sẽ được sinh ra. Nếu
như Xã hội 4.0 có một loạt các ràng buộc tồn tại liên quan đến các vấn đề xã hội
như xã hội cao niên và suy thoái khu vực khiến cho việc đáp ứng đầy đủ trở nên
khó khăn, thì sang Xã hội 5.0 các vấn đề xã hội sẽ được khắc phục và con người
sẽ được giải phóng khỏi các loại ràng buộc ấy. Nếu như Xã hội 4.0 tràn ngập
thông tin mà việc tìm và phân tích thông tin mong muốn là việc khó khăn và nặng
nề, thì sang Xã hội 5.0 trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ giải phóng con người khỏi những
công việc nặng nhọc trong phân tích lượng thông tin khổng lồ. Nếu như Xã hội
4.0 con người thực hiện khối lượng công việc với khả năng giới hạn cả về thể trạng
và tinh thần, thì sang Xã hội 5.0 nhiều khả năng mở ra cho con người sẽ được mở
rộng thông qua sử dụng người máy, các xe tự lái, v.v.
Hình
2:
Sáng tạo là đặc trưng chuyển từ Xã hội 4.0 sang Xã hội 5.0
(Nguồn: CAO, Japan)
Xã
hội 4.0 với phát triển kinh tế sinh ra một số vấn đề như: nhu cầu năng lượng
tăng cao; nhu cầu lương thực nhiều hơn; tuổi thọ lâu hơn; xã hội ngày càng cao
niên; hợp tác quốc tế ngày càng gay gắt; sự tập trung của cải và bất bình đẳng
vùng miền ngày càng tăng. Tự Xã hội 4.0 chưa có giải pháp rõ ràng để giải quyết
những vấn đề này. Xã hội 5.0 sẽ xem xét giải quyết các vấn đề đó bằng cách giảm
khí thải nhà kính; sản xuất gia tăng, giảm hao hụt lương thực; giảm thiểu chi
phí liên quan đến xã hội cao niên; khuyến khích công nghiệp hóa bền vững; phân
phối lại của cải và điều chỉnh bất bình đẳng vùng miền. Như vậy, bằng cách kết
hợp các công nghệ mới như IoT, AI, Robot, Big data vào tất cả các ngành công
nghiệp và các hoạt động xã hội, cung cấp các hàng hóa và dịch vụ giải quyết những
nhu cầu đa dạng mà không chênh lệch, Xã hội 5.0 sẽ cân bằng và hài hòa giữa sự
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội một cách căn cơ và bền vững.
Đó là một xã hội tập trung vào mỗi người và không phải là một tương lai do AI
và robot kiểm soát và giám sát [1, 2].
Công nghiệp 4.0 – Nền sản xuất thông minh
Khái niệm Công nghiệp 4.0 [4, 5, 6] đề cập đến những
khái niệm mà chúng ta thường nghe: cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công
nghiệp thông minh, công nghiệp kết nối hoặc công nghiệp mạng. Tất cả những khái
niệm này đều liên quan đến sử dụng công nghệ làm cho quá trình sản xuất trở nên
linh hoạt, năng động và dễ nhận thấy hơn đối với khách hàng.
Công nghiệp 4.0 là
về chuyển đổi số [7] với sự tích hợp và số hóa tất cả các quy trình công nghiệp
tạo nên chuỗi giá trị, đặc trưng bởi khả năng thích ứng, linh hoạt và hiệu quả
cho phép, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hang.
Công nghiệp 4.0 thể
hiện bước nhảy vọt về chất lượng trong việc tổ chức và kiểm soát toàn bộ chuỗi
giá trị trong suốt vòng đời sản xuất và phân phối sản phẩm.
Hình
3:
Sự tiến hóa của công nghiệp từ 1.0 đến 4.0 (Nguồn:
iotsens)
Nhìn lại lịch sử
phát triển, như Hình 3 khái quát: Công nghiệp 1.0 được khởi đầu vào cuối thế kỷ
XVIII với sự xuất hiện của các thiết bị sản xuất cơ khí với động cơ hơi nước
(năm 1765, sau đó máy dệt đầu tiên xuất hiện năm 1784). Công nghiệp 2.0 đặc
trưng bởi sản xuất hàng loạt nhờ trợ giúp của năng lượng điện và được tính từ
cuối thế kỷ XIX (dây chuyền sản xuất đầu tiên xuất hiện vào năm 1870). Công
nghiệp 3.0 được khởi đầu vào cuối thế kỷ XX với việc sử dụng các hệ thống điện
tử, công nghệ thông tin để có nền sản xuất tự động hóa (bộ điều khiển logic lập
trình được PLC đầu tiên xuất hiện vào năm 1969). Công nghiệp 4.0 hình thành khi
chúng ta đề cập đến cách mạng công nghiệp lần thứ tư từ khoảng đầu những năm
2010, với việc sử dụng các hệ mạng – thực tế CPS (Cyber-Physical Systems) để có
nền sản xuất thông minh (smart
production) với IoT, AI, Big data, robot, v.v.
Chúng ta cần phân
biệt rõ thuật ngữ Công nghiệp 4.0 để
chỉ nền công nghiệp trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, chứ không nói và viết Cách mạng công nghiệp 4.0 (!).
Công nghiệp 4.0 có
những nguyên tắc thiết kế nền sản xuất thông minh, có những lợi ích đem lại cho
doanh nghiệp, cho cộng đồng và cho xã hội [6].
Những điểm chung của
Xã hội 5.0 và Công nghiệp 4.0
Như
trên đã nêu, chúng ta thấy Xã hội 5.0 do Nhật Bản đề xuất đã ở tầm xa hơn, cao
hơn so với Công nghiệp 4.0 [5]. Tuy nhiên, cả hai đều có những điểm chung sau
đây [8]:
Cả
hai đều đề cập đến các chủ đề IoT, AI, các máy thông minh, quản trị tri thức,
web thông minh để biểu thị sự kết nối giữa chúng.
Cả
hai đều nhấn mạnh việc giao tiếp giữa con người với máy móc, giữa con người với
con người thông qua các máy thông minh.
Cả
hai đều nhấn mạnh việc thực thi đa nhiệm thông qua các loại phương tiện tự động
và các nền tính toán khác nhau.
Cả
hai đều nhấn mạnh nhu cầu công việc trong thời đại mới vì không còn một công việc
đơn lẻ mỗi giờ, mà luôn được tiến hành với các quy trình khác hoặc như một
phương tiện cho các thủ tục khác.
Cả hai
đều nhấn mạnh sự dịch chuyển tự do từ quá trình này sang quá trình khác và cần
ít giao thức hơn để hoàn thành công việc.
Cả hai đều thúc đẩy
phát triển các kỹ thuật công nghệ bền vững bằng cách đảm bảo việc bảo tồn thiên
nhiên và sinh thái sao cho ở mức tốt nhất.
Những điểm riêng của
Xã hội 5.0 và Công nghiệp 4.0
Điểm
riêng biệt trước tiên thể hiện ở đối tượng hướng tới: Xã hội 5.0 lấy con người làm trung tâm, xây dựng một xã
hội hạnh phúc và vì lợi ích của con người, của chính phủ đối với người dân.
Công nghiệp 4.0 lấy sản xuất làm trung
tâm, hướng tới thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Có thể nói, Công nghiệp 4.0
như một phương tiện trong Xã hội 5.0. Cả hai đều có những mặt tích cực, những mặt
tiêu cực và những vấn đề xã hội (có thể sẽ được trao đổi ở những bài viết kế tiếp).
Ngoài ra, sự riêng biệt còn thể hiện ở những điểm sau đây [8]:
Công nghiệp 4.0 nhấn
mạnh vào cách thực hiện công việc. Xã hội 5.0 nhấn mạnh vào cách tối ưu hóa
trách nhiệm của con người để hoàn thành công việc.
Công nghiệp 4.0 nhấn
mạnh vào hiệu quả của việc sử dụng các máy móc tự động. Xã hội 5.0 nhấn mạnh
vào hiệu quả của việc tối ưu hóa lao động tri thức với sự trợ giúp của các máy
móc thông minh.
Công nghiệp 4.0 là
về truyền thông máy tính bằng mọi cách. Xã hội 5.0 là về hài hòa hóa công việc
với sự trợ giúp của máy móc thông minh vì lợi ích của người lao động, của con
người.
Lời kết
Nhật Bản đã mạnh dạn
tiến lên bằng cách kêu gọi xây dựng Xã hội
5.0 với ngụ ý rằng những thay đổi sẽ liên quan đến mọi khía cạnh của xã hội,
không chỉ sản xuất công nghiệp. Sự phân chia xã hội thành 1.0 đến 5.0 của Nhật
Bản là dựa theo công nghệ, kỹ thuật đặc trưng của từng thời kỳ xã hội,
không/chưa dựa theo các yếu tố chính trị - xã hội. Việc phân chia công nghiệp từ
1.0 đến 4.0 của Đức cũng theo trình độ, kỹ thuật đặc trưng cho từng thời kỳ
công nghiệp.
Đưa ra và hướng tới
Xã hội 5.0 với các thuộc tính đã nêu sẽ cho phép không chỉ Nhật Bản mà cả thế
giới cũng nhận ra sự phát triển kinh tế phải cân bằng, đồng bộ với giải quyết
các vấn đề xã hội quan trọng.
Xã hội 5.0 cũng
góp phần đáp ứng 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) do Liên Hợp Quốc ban
hành vào những năm 2010-2015 [9].
Nguyễn Ngọc Bình
Nguyên Chủ tịch Hội Vô tuyến – Điện tử Việt
Nam (REV)
Nguyên Hiệu trường
Trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN (VNU-UET)
Vice-President, The
Kyoto College of Graduate Studies for Informatics (KCGI), Japan
URLs tham khảo
chính:
1. https://www8.cao.go.jp/cstp/english/society5_0/index.html
2. https://www8.cao.go.jp/cstp/society5_0/index.html
3. http://www.keidanren.or.jp/en/policy/2016/029_outline.pdf
4. https://www.i-scoop.eu/industry-4-0-society-5-0/
5. https://www.japanindustrynews.com/2017/08/japans-society-5-0-going-beyond-industry-4-0/
6. http://www.iotsens.com/what-is-industry-4-0-and-what-does-it-contribute-to-my-company/
7. https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/42811802-chuyen-doi-so-quoc-gia-co-hoi-va-thach-thuc.html
8. https://aziyatiyusoff.com/2018/08/31/industry-4-0-vs-society-5-0
9. https://sustainabledevelopment.un.org